Một vấn đề nóng bỏng, gây bức xúc trong dư luận xã hội cả nước hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất (công nghiệp, nông nghiệp, khói bụi từ các nhà máy và các phương tiện giao thông,…) và sinh hoạt của con người gây ra, đặc biệt là vấn đề khan hiếm và ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam và trên toàn thế giới ngày càng nghiêm trọng hơn. Vấn đề nếu còn tiếp tục kéo dài sẽ đe doạ trực tiếp sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai, sẽ gây ra rất nhiều hậu quả nguy hiểm đối với sức khỏe con người cũng như các sinh vật sống khác trên trái đất.
Vậy nên, làm rõ thực trạng, xác định các hiểm họa xảy ra để tìm kiếm đồng bộ các giải pháp khắc phục ô nhiễm môi trường là vấn đề cấp thiết, cần được quan tâm nhất hiện nay.
Bài viết xin được khái quát thực trạng chung hiện nay, xu thế, thách thức với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và các giải pháp cơ bản. Quá trình nhận định và nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự quan tâm và phản hồi từ các đọc giả.
I.Thực trạng và xu thế môi trường Việt Nam
Hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Tuy vậy, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã tạo ra nhiều bất cập và áp lực lớn đối với môi trường sinh thái. Tình trạng ô nhiễm môi trường tiếp tục diễn biến phức tạp, trên diện rộng và ngày càng nghiêm trọng, chất lượng môi trường nhiều nơi suy giảm mạnh, đặc biệt ở các khu vực tập trung các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội; đa dạng sinh học và chất lượng rừng suy thoái đến mức báo động, nguồn gen bị thất thoát; hạn hán và xâm nhập mặn gia tăng; sự cố môi trường xảy ra nhiều, gây hậu quả nghiêm trọng, an ninh sinh thái bị đe dọa….. Cùng với biến đổi khí hậu, vấn đề môi trường đã trở thành nguy cơ lớn cản trở mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Ô nhiễm tại các lưu vực sông đang diễn ra nghiêm trọng và tiếp tục diễn biến theo chiều hướng xấu. Hệ thống nước mặt Việt Nam với hơn 2.360 con sông, suối và hàng nghìn hồ, ao. Nguồn nước này là nơi cư trú và nguồn sống của các loài động, thực vật và hàng triệu người, đây cũng là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất và sinh hoạt. Tuy nhiên, những nguồn nước này đang bị suy thoái và phá hủy nghiêm trọng do khai thác quá mức và bị ô nhiễm với các mức độ khác nhau. Thậm chí nhiều con sông, đoạn sông, ao, hồ đang “chết” bởi khối lượng những chất thải, rác thải, nước thải xả ra môi trường mà chưa được xử lý. Lượng nước thải đô thị, hạ tầng thu gom, xử lý nước thải chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng quá tải khả năng tiếp nhận chất thải, nước thải dẫn đến nhiều dòng sông không còn khả năng tự làm sạch và bị biến thành nơi dẫn, tiêu thoát và chứa nước thải như sông Nhuệ - Đáy, Bắc Hưng Hải, Cầu, Vu Gia - Thu Bồn, Đồng Nai - Sài Gòn…
Theo thống kê và đánh giá của Bộ Y tế và Bộ Tài Nguyên môi trường trung bình mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 9.000 người tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém, gần 200.000 trường hợp mắc bệnh ung thư mới phát hiện, mà một trong những nguyên nhân chính là sử dụng nguồn nước ô nhiễm.
Ô nhiễm không khí, đặc biệt là ô nhiễm bụi đang trở thành vấn đề báo động ở Việt Nam, trực tiếp ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, gây tâm lý bất an và lo lắng cho nhân dân. Tình trạng ô nhiễm môi trường không khí trong thời gian qua tại một số địa phương có xu hướng gia tăng do gia tăng các chất ô nhiễm từ hoạt động kinh tế; chất lượng không khí ở các đô thị, khu vực đông dân cư đã suy giảm nghiêm trọng, hiện tượng sương mù (do nguồn rác thải không khí kết hợp với yếu tố khí tượng) xuất hiện ngày càng nhiều và tần xuất dày đặc.
Theo báo cáo năm 2018 của Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA), giao thông vận tải đóng góp 24.34% lượng khí thải carbon mỗi năm. Xét riêng lĩnh vực giao thông vận tải, các loại ô tô hạng nhẹ, ô tô tải và ô tô bus lần lượt chiếm 44%, 27% và 6% lượng khí thải carbon mỗi năm. Các phương tiện giao thông cơ giới sử dụng nhiên liệu hóa thạch như xăng và dầu diesel, quá trình đốt cháy nhiên liệu dẫn tới phát sinh nhiều loại khí thải như SO2, NO2, CO, bụi (TSP, PM10, PM2.5); thậm chí rò rỉ, bốc hơi nhiên liệu khi vận hành phát sinh VOC, Benzen, Toluen.... Tính đến tháng 02 năm 2020, toàn quốc có tổng số 3.553.700 xe ô tô và khoảng 45 triệu xe máy đang lưu hành. Trong đó, Hà Nội có gần 6 triệu xe máy, Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 8 triệu xe máy lưu thông hàng ngày, chưa tính đến các phương tiện giao thông của người dân từ các địa phương khác đi qua. Trong đó, nhiều phương tiện cũ không đảm bảo tiêu chuẩn khí thải, niên hạn để lưu thông trong thành phố, nhiều xe qua nhiều năm sử dụng và không thường xuyên bảo dưỡng nên hiệu quả sử dụng nhiên liệu thấp, nồng độ chất độc hại và bụi trong khí thải cao. Đây là một trong những nguyên nhân của vấn đề ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn ở Việt Nam hiện nay.
Ô nhiễm tại các khu công nghiệp và làng nghề ở mức đáng lo ngại, với hàng chục triệu tấn rác thải sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp, hàng trăm nghìn tấn chất thải nguy hại, rác thải nhựa phát sinh mỗi năm. Trong khi hầu hết chất thải rắn chưa được phân loại tại nguồn, năng lực thu gom còn nhiều hạn chế, phần lớn chất thải rắn được xử lý theo hình thức chôn lấp, nhiều bãi chôn lấp không hợp vệ sinh gây phát tán mùi ra các khu dân cư, gây bức xúc trong nhân dân. Cùng với đó là diễn biến phức tạp và chưa có biện pháp ứng phó hiệu quả vấn đề rác thải nhựa, nạo vét vật liệu trên vùng biển quốc gia. Các sự cố môi trường biển có xu hướng gia tăng, nổi lên là ô nhiễm dầu từ các hoạt động hợp tác khai thác dầu khí, giao thông vận tải biển; sự cố tràn dầu trên biển Đông đã ảnh hưởng lớn đến các vùng ven biển ở nước ta. Chất lượng nước biển ven bờ đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi nguồn rác thải từ đất liền.
Tình trạng suy giảm diện tích đất nông nghiệp, đất rừng cùng với đó là hiện tượng xói mòn, rửa trôi ở các khu vực đồi núi, cạn kiệt dinh dưỡng trong đất và thoái hóa đất do sử dụng chất bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, phân bón hóa học và các loại chất thải tiếp tục diễn biến phức tạp theo chiều hướng ngày càng tăng. Tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn tiếp tục ra tăng về tần suất, quy mô và mức độ ảnh hưởng. Công tác quản lý, khai thác và tình trạng ô nhiễm môi trường nước trên hệ thống sông xuyên biên giới diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng và khó kiểm soát, thậm chí chúng ta chịu phụ thuộc vào các quốc gia đầu nguồn.
Nhiều khu vực ô nhiễm tồn lưu, cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng chưa được xử lý triệt để, nhiều cơ sở công nghiệp nằm xen lẫn trong khu dân cư chưa được di dời. Đến tháng 12/2019, cả nước còn 32 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg), 146 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa hoàn thành các biện pháp xử lý ô nhiễm triệt để (Quyết định số 1788/QĐ-TTg).
Các sự cố ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và rất nghiêm trọng xảy ra trên diện rộng trong thời gian qua đã ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sinh thái, sức khỏe của người dân, gióng lên hồi chuông cảnh báo và là bài học đắt giá cho Đất nước ta về việc phát triển kinh tế thiếu bền vững, thiếu quan tâm đầu tư thỏa đáng cho công tác cải thiện và bảo vệ môi trường. Số lượng các loài động vật, thực vật hoang dã trong tự nhiên bị suy giảm. Các hệ sinh thái tự nhiên tiếp tục bị chia cắt, thu hẹp về diện tích và xuống cấp về chất lượng; dẫn đến mất cân bằng sinh thái, giảm chức năng phòng hộ, mất nguồn cung cấp nước ngầm, mất nơi sinh cư và sinh sản của các loài sinh vật. Số loài và số cá thể các loài hoang dã bị giảm mạnh; nhiều loài bị săn bắt, khai thác, buôn bán trái phép dẫn đến nguy cơ bị tuyệt chủng cao; nguy cơ mất an ninh sinh thái do sinh vật ngoại lai xâm hại và rủi ro từ các sinh vật biến đổi gen.
Thực trạng và xu hướng diễn biến môi trường sinh thái của Việt Nam hiện nay cho chúng ta thấy môi trường Việt Nam đang đứng trước những thách thức rất lớn nếu chúng ta không có những giải pháp khắc phục kịp thời.
II.Các thách thức
1.Suy thoái đa dạng sinh học và mất cân bằng sinh thái
Với nền khí hậu nhiệt đới, Việt Nam là một trong 16 quốc gia có đa dạng sinh học cao trên thế giới, tiềm năng đa dạng sinh học rất phong phú, các hệ sinh thái có tính đa dạng cao, giống loài và nguồn gen quý hiếm. Theo thống kê, Việt Nam đã phát hiện được gần 12.000 loài thực vật, trong đó khoảng 2.300 loài được sử dụng làm lương thực, khoảng 3.300 loài được sử dụng làm dược liệu, thức ăn gia súc, lấy gỗ, lấy dầu và nhiều sản phẩm quý khác. Về hệ động vật, Việt Nam có khoảng 310 loài thú; 840 loài chim; 296 loài bò sát; 162 loài ếch nhái; 2.472 loài cá (trong đó có 472 loài cá nước ngọt) và hàng chục nghìn loài động vật không xương sống ở cạn, ở nước và trong đất… Hiện cả nước có 173 khu bảo tồn với tổng diện tích hơn 2.500 ha, gồm 33 vườn quốc gia; 66 khu dự trữ thiên nhiên; 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh; 56 khu bảo vệ cảnh quan (tăng 07 khu bảo tồn so với năm 2015 với tổng diện tích tăng thêm gần 73.260 ha); có 9 khu Ramsar với tổng diện tích hơn 120.000 ha; 10 khu bảo tồn biển đã được thành lập với tổng diện tích gần 188.000 ha; 09 khu vực được công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới với tổng diện tích hơn 4,2 triệu ha.
Tuy nhiên, nguồn gen trong tự nhiên chưa được bảo tồn hiệu quả, gây mất mát nguồn gen lớn, đặc biệt là các nguồn gen bản địa, quý hiếm, có giá trị khoa học và kinh tế,…Đến nay, trên toàn quốc mới chỉ có hơn 30 tỉnh đưa các loại hình nhiệm vụ quỹ gen vào thực hiện hàng năm. Việt Nam được xếp vào những nước bị mất đa dạng sinh học lớn trên thế giới, đa dạng sinh học đang tiếp tục bị suy thoái với tốc độ nhanh. Sức khỏe các hệ sinh thái tự nhiên đang xấu đi nhanh chóng hơn bao giờ hết, dẫn đến mất cân bằng sinh thái, xói mòn nền tảng và nguồn vốn tự nhiên của nền kinh tế, sinh kế, an ninh lương thực, sức khỏe và chất lượng cuộc sống của các thế hệ tương lai Đất nước.
Mặc dù số lượng các khu bảo tồn, khu Ramsar, vườn di sản ở Việt Nam tiếp tục gia tăng; số lượng các nguồn gen quý hiếm được bảo tồn tiếp tục tăng, nhưng các hệ sinh thái tự nhiên (như rừng trên cạn, rừng ngập mặn, đất ngập nước, rạn san hô, thảm cỏ biển, rong biển, núi đá vôi, bãi bồi cửa sông ven biển,…) tiếp tục bị tàn phá và chia cắt, thu hẹp diện tích, xuống cấp và suy thoái chất lượng ở mức báo động, làm mất nơi sinh cư của nhiều loài động thực vật hoang dã. Tài nguyên sinh vật đang bị khai thác quá mức, khai thác tận diệt, nhất là thủy sản, hải sản, lâm sản gỗ và phi gỗ. Số loài và số cá thể các loài hoang dã giảm mạnh, nhiều loài bị săn bắn, khai thác, buôn bán và tiêu thụ trái phép nên nguy cơ bị tuyệt chủng cao.
Ví dụ: Gần đây nhất sáng 04/8/2021, các đơn vị nghiệp vụ Công an tỉnh Nghệ An kiểm tra đột xuất và phát hiện tại nhà của vợ chồng ông Nguyễn Văn Hiền và bà Hồ Thị Thanh (trú tại xóm Nam Vực, xã Đô Thành, huyện Yên Thành) đang nuôi nhốt 14 con hổ trưởng thành, trọng lượng gần 200 kg/con. Cùng thời gian trên, lực lượng công an phát hiện tại gia đình bà Nguyễn Thị Định (trú tại xóm Phú Xuân, xã Đô Thành, huyện Yên Thành) nuôi nhốt 3 con hổ trọng lượng từ 225 đến 265 kg.
Thời gian qua, nhiều chi, loài mới được phát hiện nhưng các loài này lại phải đối mặt với những nguy cơ rất lớn, số loài cần được ưu tiên, bảo vệ cũng gia tăng. Sự nhiễu loạn của các hệ sinh thái, sự xâm lấn của các sinh vật ngoại lai xâm hại và sinh vật biến đổi gen đang diễn ra phổ biến ở Việt Nam, gây ra các nguy cơ và rủi ro đối với đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái và tổn thất kinh tế. Bài học ốc bươu vàng, rùa tai đỏ, chuột hải ly, tôm hùm đất, gián đất, chồn nhung đen,...dùng để phát triển kinh tế là những loài được quốc tế cảnh báo xâm hại nguy hiểm và gây hậu quả nghiêm trọng đến sinh thái, tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học, các ngành kinh tế của Việt Nam.
2.Chất lượng rừng tiếp tục suy giảm và mất chức năng phòng hộ
Theo số liệu của Tổng cục Lâm nghiệp công bố cuối năm 2019, cả nước có 14,45 triệu ha rừng, tương đương độ che phủ 41,85%. Đây là con số thoạt nhìn thì đáng mừng. Vì những năm 1945, diện tích rừng của chúng ta chỉ chiếm 45% tổng diện tích và cứ thế bị giảm dần. Đến 1999, diện tích rừng bị thu hẹp chỉ còn khoảng 33%, lúc đó nhà nước bắt đầu có chính sách kịp thời để trồng rừng và khôi phục lại rừng, từ đó diện tích rừng tăng dần lên. Độ che phủ của rừng ở Việt Nam 41,85% vào năm 2019 là cao so với thế giới nhưng xét về chất lượng rừng là câu chuyện đáng bàn. Những năm 1945, đa số là rừng tự nhiên. Còn trong tổng số hơn 14 triệu ha rừng hiện nay, rừng đặc dụng chỉ có 2,15 triệu ha, rừng phòng hộ là 4,6 triệu ha, còn lại là rừng sản xuất. Các khu rừng đặc dụng, phòng hộ phân bố đều các tỉnh, thành phố từ Bắc đến Nam với 54/63 tỉnh thành có các khu rừng đặc dụng và 59/63 tỉnh có rừng phòng hộ. Tuy nhiên, tỷ lệ và chất lượng rừng tự nhiên rất thấp, phần nhiều là rừng mới, rừng nghèo. Diện tích rừng ngập mặn cũng đang bị suy giảm về chất lượng dẫn đến mất chức năng phòng hộ và bảo vệ của hệ thống rừng.
Chất lượng rừng phòng hộ, rừng tự nhiên suy giảm mạnh là nguyên nhân làm gia tăng quy mô và cường độ lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn trong những năm vừa qua. Do đó, nếu rừng mất đi chức năng phòng hộ thì là một vấn đề cấp bách và đáng báo động, là thách thức lớn trong việc phát triển kinh tế bền vững và biến đổi khí hậu bất thường.
3.Gia tăng chất thải, ô nhiễm môi trường và vấn đề an toàn thực phẩm
Đi cùng với việc tăng trưởng kinh tế-xã hội, Việt Nam đang phải đối mặt với các vấn đề phức tạp về dân số và chất thải. Theo Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), lượng chất thải rắn sinh hoạt đã và đang gia tăng về cả số lượng, thành phần và tính chất, gây áp lực rất lớn đến môi trường. Ước tính, hiện nay trên cả nước lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng hơn 60.000 tấn/ngày, trong đó khu vực đô thị chiếm 60%. Đến năm 2025, tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt dự báo tăng 10-16%/năm.
Trung bình mỗi năm Việt Nam thải ra môi trường 1,8 triệu tấn rác thải nhựa, trong đó có 0,28 triệu – 0,73 triệu tấn thải ra biển (tức là chiếm khoảng 6% tổng rác thải nhựa ra biển của toàn thế giới). Đơn cử như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn nhựa và nilon. Trong đó, cứ 4.000 – 5.000 tấn rác thải mỗi ngày thì đã có 7% – 8% là rác thải nhựa, nilon. Với thực trạng xả rác thải nhựa như vậy, chẳng mấy chốc Việt Nam sẽ chìm trong biển rác nhựa và phải đối mặt với nguy cơ “ô nhiễm trắng” trầm trọng. Trong khi đó, việc xử lý, tái chế rác thải nhựa ở Việt Nam còn nhiều yếu kém, lạc hậu và có nhiều hạn chế khi có đến 90% rác thải nhựa được xử lý theo cách chôn, lấp, đốt và chỉ có 10% còn lại là được tái chế. Trong khi việc xử lý theo cách chôn, lấp, đốt có rất nhiều nhược điểm, gây hại cho môi trường, con người. Cùng với đó, người dân thiếu ý thức trong việc phân loại rác thải ngay tại nguồn gây nhiều khó khăn cho phân loại, xử lý và tái chế.
Rác thải nhựa rất khó bị phân huỷ trong môi trường tự nhiên. Mỗi loại chất nhựa có số năm phân huỷ khác nhau với thời gian rất dài, hàng trăm năm có khi tới hàng nghìn năm. Đơn cử theo thông tin từ báo Môi trường & Đô thị thì: chai nhựa phân hủy sau 450 năm – 1000 năm; ống hút, nắp chai sẽ phân hủy sau 100 năm – 500 năm; bàn chải đánh răng phân hủy sau 500 năm… Các loài động vật khi ăn phải rác thải nhựa có thể chết, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng, gây mất cân bằng sinh thái. Rác thải nhựa không được xử lý đúng cách sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến không khí và môi trường nước. Khi đốt, rác thải nhựa sẽ sinh ra chất độc đi-ô-xin, furan gây ô nhiễm không khí, gây ngộ độc, ảnh hưởng đến tuyến nội tiết, làm giảm khả năng miễn dịch, gây ung thư,…Khi chôn lấp, rác thải nhựa sẽ làm cho đất không giữ được nước, dinh dưỡng và ngăn cản quá trình khí oxy đi qua đất, gây tác động xấu đến sự sinh trưởng của cây trồng. Hơn nữa, nó có thể làm ô nhiễm nguồn nước, gây ra cái chết của các vi sinh vật có lợi cho cây ở dưới lòng đất.
Đáng nguy hại hơn nữa là hiện nay chúng ta chưa tìm ra lời giải hợp lý cho việc xử lý các tấm pin năng lượng mặt trời khi nó hết niên hạn sử dụng.
Việc lạm dụng hóa chất trong sinh hoạt và nuôi trồng, bảo quản, chế biến dẫn đến ô nhiễm thực phẩm ngày càng gia tăng ở mức báo động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người. Tình trạng ngộ độc thực phẩm và các bệnh liên quan đến thực phẩm ô nhiễm đang diễn ra phổ biến và có xu hướng ngày càng gia tăng. Theo thống kê của Bộ Y tế, trung bình mỗi năm khoảng gần 170 vụ với hơn 5.000 người mắc và hơn 27 người chết do ngộ độc thực phẩm. Giai đoạn 2011- 2016 đã ghi nhận 7 bệnh truyền qua thực phẩm, hơn 4 triệu người mắc bệnh và 123 người chết. Bệnh ung thư mỗi năm làm 70.000 người chết và hơn 200.000 ca phát hiện mới.
4.Sự cố môi trường và tiềm ẩn nguy cơ rủi ro
Thực tế những năm qua cho thấy, Việt Nam đang đối mặt và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro về môi trường sinh thái. Các sự cố môi trường tiếp tục gia tăng nghiêm trọng, nhiều vụ ảnh hưởng trên phạm vi rộng, diễn biến phức tạp, gây khó khăn cho công tác xử lý và khắc phục hậu quả. Hầu hết, các sự cố môi trường xảy ra tất cả đều mang dấu ấn của bàn tay con người gây ra.
Điển hình sự cố hải sản chết bất thường tại khu vực miền Trung tại các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế từ ngày 06/4/2016 đến hết ngày 10/5/2016; sự cố xả chất thải của Công ty Mía đường Hòa Bình và Công ty TNHH MTV Tân Hiếu Hưng gây cá chết hàng loạt trên sông Bưởi (Thanh Hóa) tháng 5/2016; sự cố tràn bùn từ hồ lắng quặng đuôi của Công ty Nhôm Đắk Nông tháng 9/2018; sự cố vỡ hồ chứa nước thải khai thác vàng của Công ty Cổ phần Tập đoàn khoáng sản công nghiệp 6666 (Quảng Nam) tháng 3/2018; sự cố vỡ đập bờ bao hồ chứa chất thải của Nhà máy DAP số 2 (KCN Tằng Loỏng, Lào Cai) tháng 9/2018 làm khoảng 45.000 m3 nước và chất thải tràn ra ngoài gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hộ dân và môi trường nước mặt vùng lân cận. Đặc biệt, gần đây, liên tiếp xảy ra các sự cố môi trường nghiêm trọng, không những ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng, mà còn đe dọa đến trật tự an ninh xã hội như sự cố cháy nhà máy Rạng Đông làm thủy ngân phát tán ra môi trường lên tới 27,2 kg, nồng độ thủy ngân vượt ngưỡng an toàn 10-30 lần; Công ty cổ phần gốm sứ Thanh Hà (Phú Thọ) thuê người đổ dầu thải đầu nguồn sông Đà khiến hàng vạn hộ dân Hà Nội dùng nước nhiễm dầu gây khủng hoảng nước sạch kéo dài cho nhân dân các Quận Thanh Xuân, Hoàng Mai, Hà Đông vào năm 2019,…
Ô nhiễm không khí cũng là vấn đề nguy hại lớn hiện nay, đặc biệt là 2 thành phố lớn là Hà Hà Nội và TP.HCM đã phải chịu đựng suốt nhiều năm, với cấp độ tăng dần. Nhiều thời điểm hai thành phố lớn nhất nước "thay phiên" nhau đứng trong danh sách thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới, theo xếp hạng của ứng dụng quan trắc quốc tế AirVisual. Có thời điểm ở Hà Nội chỉ số AQI (Air Quality Index- là một chỉ số báo cáo chất lượng không khí hàng ngày) liên tục vượt ngưỡng 300, không khí ở mức nguy hại.
Hàng năm, trung bình có khoảng 5 - 6 vụ tràn dầu lớn được ghi nhận chủ yếu do va chạm, quá trình bốc dỡ hoặc đắm tàu gây ra. Hiện tượng dầu dạt vào bờ biển một số tỉnh miền Trung và miền Nam không rõ nguyên nhân, gây ONMT nghiêm trọng và ảnh hưởng lớn đến các hoạt động kinh tế - xã hội.
5.Gia tăng hạn hán, xâm nhập mặn và ảnh hưởng của thiên tai
Việt Nam là một trong 4 nước ở khu vực Đông Nam Á chịu ảnh hưởng lớn nhất của các hiện tượng thời tiết cực đoan trong hai thập kỷ trở lại đây. Thống kê 20 năm qua cho thấy, các thiên tai ở nước ta có xu thế gia tăng tính cực đoan, diễn biến bất thường, trái quy luật và ngày càng nghiêm trọng; gia tăng cả về tần suất, quy mô và cường độ; gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Thiên tai xảy ra nhiều hơn tại các vùng trước đây ít khi xảy ra những trận thiên tai lớn, như bão ở vùng Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Mưa đặc biệt lớn, trong đó mưa cục bộ ở nhiều vùng vượt giá trị lịch sử; mưa trái mùa ở một số khu vực như mưa sớm hơn hoặc mưa muộn cuối mùa (sau khi các hồ chứa đã tích đầy nước); bão lớn trên cấp 11 - 12 thường xuyên xảy ra và trái quy luật cả về thời gian hình thành và khu vực đổ bộ; lũ lớn xảy ra thường xuyên, thời gian xảy ra ngay từ đầu năm và kéo dài đến cuối năm. Hạn hán khốc liệt trên diện rộng, kéo dài tại các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ. Thống kê của Tổng cục Phòng chống Thiên tai trong 10 năm qua, Việt Nam có hơn 3.600 người chết và mất tích do thiên tai, gây thiệt hại khoảng 288.000 tỷ đồng. Trung bình mỗi năm, thiên tai làm cho Việt Nam mất đi từ 1,0 - 1,5% GDP.
Trong những năm qua, do ảnh hưởng nặng nề của BĐKH và nước biển dâng, thiên tai hạn hán diễn ra ngày càng khốc liệt, khó dự báo trên phạm vi cả nước, dẫn đến tình trạng thiếu nước nghiêm trọng, xâm nhập mặn kéo dài và trở nên trầm trọng hơn, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và dân sinh, đặc biệt là ở miền Trung, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Thiên tai hạn hán và xâm nhập mặn được xác định là một trong những thách thức ngày càng lớn đối với công cuộc phát triển và bảo vệ Đất nước trong những năm tới. Ứng phó thắng lợi với thiên tai, trong đó có hạn hán và xâm nhập mặn là một nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu và là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững của Đất nước, bảo vệ an toàn cuộc sống Dân dân.
6.Cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và vấn đề an ninh nguồn nước
Các tài nguyên thiên nhiên (TNTN) ở Việt Nam đang diễn biến theo chiều hướng xấu, tiếp tục bị thu hẹp cả về số lượng và chất lượng. Đây là hệ quả kéo dài của hoạt động khai thác TNTN một cách thiếu hợp lý, cùng với việc sử dụng TNTN lãng phí và công tác quản lý yếu kém của các cấp chính quyền. Chúng ta đang đối mặt với nhiều thách thức về cạn kiệt TNTN sau một thời gian dài xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế của Đất nước chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thô, kỹ năng và năng suất lao động thấp, giá rẻ. Tài nguyên rừng bị thu hẹp; tài nguyên ĐDSH suy giảm mạnh và các loài sinh vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng rất cao; cạn kiệt và thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nước; tài nguyên khoáng sản đang dần cạn kiệt; tài nguyên đất nông nghiệp bị giảm do chuyển sang phục vụ công nghiệp và dịch vụ; đất bị hạn hán, nhiễm mặn, hoang mạc hóa ngày một tăng;...
Để bảo đảm sử dụng bền vững tài nguyên nước, mức khai thác không vượt ngưỡng 30% nguồn nước, nhưng hầu hết các sông ở miền Trung, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên đã và đang khai thác trên 30-50% lượng dòng chảy. Việc khai thác quá mức nguồn nước, đặc biệt xây dựng các hồ thủy lợi, thủy điện là nguyên nhân làm suy giảm rõ rệt số lượng và chất lượng nước của các sông lớn như: Sông Hồng, Đồng Nai - Sài Gòn, Gia Vu, Thu Bồn, Ba, Srêpốk,... Do tập quán canh tác nông nghiệp sử dụng nhiều nước của nhân dân nhưng lại thiếu các biện pháp dự trữ nước hợp lý trong mùa mưa để dùng dần trong mùa khô, nên thường xuyên phải đối mặt với tình trạng thiếu nước vào mùa khô ở nhiều nơi. Việt Nam hiện thuộc nhóm quốc gia "thiếu nước" do lượng nước mặt bình quân đầu người chỉ đạt 3.840 m3/năm, thấp hơn chỉ tiêu của Hội Tài nguyên Nước quốc tế (4.000 m3/người/năm). Đây được xem là một nghịch lý đối với một quốc gia có mạng lưới sông ngòi dày đặc như nước ta.
Việt Nam có 2.360 sông thuộc 16 lưu vực sông, trong đó hơn 60% tài nguyên nước mặt bắt nguồn từ các quốc gia khác. Do đó, Việt Nam rất nhạy cảm với mọi hoạt động liên quan đến khai thác, sử dụng nước từ phía thượng lưu. Trong khi BĐKH đang làm suy thoái tài nguyên nước, nhưng nhu cầu dùng nước của các quốc gia lại tăng lên, làm tăng các bất đồng và xung đột trong sử dụng chung nguồn nước. Các vấn đề môi trường theo lưu vực sông xuyên biên giới ngày càng phức tạp. Đến nay, trên thượng nguồn dòng chính sông Mê Kông có 07 công trình đập thủy điện đã được xây dựng, trong đó có 03 đập đang xây dựng và 01 đập dự kiến xây dựng vào năm 2022 cùng với 78 con đập trên dòng phụ. Các đập thủy điện này không chỉ làm thay đổi dòng chảy môi trường, ngăn chặn sự di chuyển của các loài thủy sinh, giảm lượng trầm tích và sụt giảm phù sa, gia tăng mất mát ĐDSH mà còn gây ô nhiễm nguồn nước, gia tăng nguy cơ xói lở bờ sông, xâm nhập mặn và tác động tích lũy sinh thái đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
7.Xâm lược sinh thái và an ninh môi trường xuyên biên giới
Việt Nam đi sau các nước phát triển nhiều thập kỷ, lợi dụng sơ hở, thiếu sót, bất cập trong hệ thống pháp luật và yếu kém trong quản lý, chúng ta đang vô tình tiếp tay cho các loại tội phạm "xâm lược sinh thái" đe dọa đến an ninh môi trường, như nhập khẩu phế liệu công nghiệp, các sinh vật ngoại lai xâm hại, nông sản có hóa chất độc hại,... biến nước ta thành bãi rác của thế giới. Hiện nay, 70% kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị từ các nước có công nghệ trung gian. Việc nhập khẩu thiết bị máy móc thế hệ cũ đang làm gia tăng chất thải. Đặc biệt, trong những năm gần đây, tình trạng đáng lo ngại là gia tăng việc nhập khẩu phế liệu, giấy phế liệu, bao bì nhựa, hàng điện tử đã qua sử dụng và máy tính cũ. Tổng khối lượng phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam năm 2018 là 9.254.300 tấn, tăng 1.308.100 tấn so với năm 2017.
Các vấn đề an ninh phi truyền thống, trong đó có ÔNMT xuyên biên giới ngày càng phức tạp và trở thành một trong những thách thức đối với Việt Nam. Chúng ta đang phải gánh chịu nhiều tác động xấu tới môi trường nước theo lưu vực sông xuyên biên giới (sông Hồng, sông Mê Kông, sông Hồng,...) bởi chất thải của các quốc gia đầu nguồn đổ xuống lưu vực. Bên cạnh đó, việc gia tăng xây dựng các dự án thủy điện của một số quốc gia trên dòng chính sông Mê Kông dự báo sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh nguồn nước, nguồn lợi thủy sản và ĐDSH của nước ta. ÔNMT trên biển Đông diễn biến phức tạp và chưa có biện pháp ứng phó hiệu quả, đặc biệt nổi lên là ô nhiễm dầu từ các hoạt động hợp tác khai thác dầu khí, giao thông vận tải biển và sự cố tràn dầu đã ảnh hưởng tới các vùng ven biển ở nước ta. Vấn đề ô nhiễm không khí xuyên biên giới mặc dù chưa có biểu hiện rõ ràng nhưng đã xuất hiện những dấu hiệu ảnh hưởng nhất định. Môi trường không khí nước ta đang chịu ảnh hưởng từ nguồn xuyên biên giới theo quy luật mức độ ô nhiễm tăng đáng kể vào mùa đông.
Đằng sau việc nhập khẩu công nghệ lạc hậu, sinh vật ngoại lai và biến đổi gen vào Việt Nam đã gây ÔNMT, mất cân bằng sinh thái, thể hiện âm mưu chiến tranh sinh thái, đe dọa an ninh môi trường ở nước ta. Các nước nghèo như Việt Nam rất dễ bị mắc bẫy này.
8.Suy giảm chất lượng đất và đe dọa đến nền nông nghiệp
Trong nhiều thập kỷ qua, ảnh hưởng của cuộc cách mạng xanh, nền nông nghiệp của Việt Nam đã có bước thay đổi lớn trong canh tác. Không thể phủ nhận lợi ích từ việc thay đổi này khi đưa năng suất trồng trọt tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mang lại, cũng dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là đối với sức khỏe của đất. Thoái hóa đất nông nghiệp ở nước ta có xu hướng tăng do các tác động tiêu cực của BĐKH và hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Ô nhiễm đất gia tăng chủ yếu do hoạt động phát triển công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt, dịch vụ,... do chất thải, nước thải chưa qua xử lý và phân bón hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật chưa được quản lý, kiểm soát, xả thải vào môi trường đất. Đất bị thoái hóa có độ phì kém, mất cân bằng dinh dưỡng do bị rửa trôi, xói mòn, hoang hóa, ngập úng, trượt lở,... Nước ta hiện nay có 04 dạng thoái hóa tự nhiên (hoang mạc đá - hoang mạc đất khô cằn ở miền Trung và Tây Nguyên; hoang mạc cát ở các tỉnh ven biển miền Trung; hoang mạc đất nhiễm mặn ở Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười và ven biển đồng bằng Bắc Bộ). Tốc độ thoái hóa đất tự nhiên diễn ra mạnh ở khu vực có địa hình đồi núi, sườn dốc hoặc các khu vực ven biển diễn biến mạnh hơn so với đất phù sa ở khu vực đồng bằng.
Các kết quả quan trắc chỉ rõ, việc bón nhiều phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ đã làm chết các vi sinh vật có lợi trong đất, làm biến đổi đặc tính đất; hiện tượng lượng phù sa cung cấp từ thượng nguồn giảm mạnh, hạn hán, xâm nhập mặn đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đất. Tình trạng thâm canh, độc canh liên tục trong thời gian dài không cho đất nghỉ ngơi, đất trồng không được cải tạo và bảo vệ, hàm lượng chất hữu cơ và độ phì nhiêu của đất bị suy giảm mạnh. Chất lượng đất sẽ là vấn đề quyết định đến năng suất và chất lượng cây trồng. Do đó, chất lượng đất suy giảm, cũng đồng nghĩa với việc môi trường sống của cây trồng kém dần và không đáp ứng được các nhu cầu của cây, tác động trực tiếp và to lớn đến năng suất cây trồng.
III.Nguyên nhân
1.Nguyên nhân khách quan
- Quy mô nền kinh tế và dân số nước ta ngày càng tăng, mức độ công nghiệp hoá và đô thị hóa ngày càng cao, khai thác TNTN ồ ạt và thiếu kiểm soát, phát sinh nhiều nguồn gây ô nhiễm, chất thải ngày càng tăng về thành phần và khối lượng, cơ sở hạ tầng thu gom và xử lý chất thải còn thiếu và không được đầu tư đồng bộ, dẫn đến các áp lực lên môi trường ngày càng cao, tác động xấu đến chất lượng môi trường, làm suy thoái các HST và ĐDSH.
- Môi trường sinh thái nước ta chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu toàn cầu, các vấn đề môi trường phi truyền thống gia tăng cùng với hội nhập thương mại quốc tế và thách thức từ vấn đề ô nhiễm môi trường xuyên biên giới.
- Còn tồn tại quan điểm ưu tiên và coi trọng tăng trưởng triển kinh tế, thu hút đầu tư bằng mọi giá và xem nhẹ yêu cầu BVMT; quan điểm không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế chưa thực sự thực hiện triệt để; văn hóa, ý thức trách nhiệm BVMT của người dân và doanh nghiệp còn nhiều hạn chế; việc thực thi các chính sách và công cụ BVMT còn nhiều bất cập và mang lại hiệu quả thấp.
2.Nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân sâu xa và chủ yếu chính là hệ thống chính sách pháp luật về BVMT còn có chồng chéo và bất cập; các công cụ quản lý môi trường chưa phát huy được hiệu lực, hiệu quả; cách tiếp cận và cộng cụ quản lý mới chưa được thể chế hóa kịp thời và không theo kịp với những diễn biến nhanh của các vấn đề môi trường và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Đất nước.
- Năng lực quản lý nhà nước về môi trường và quản trị môi trường của doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu. Mô hình tổ chức cơ quan quản lý về BVMT từ Trung ương xuống đến địa phương còn bất cập và yếu kém về năng lực, chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý đối với một số lĩnh vực lớn, phức tạp, nhạy cảm đang gia tăng hiện nay. Cơ quan quản lý địa phương còn phụ thuộc vào các quyết định thu hút đầu tư dự án (kể cả dự án có nguy cơ gây ONMT nghiêm trọng) của UBND các cấp, chưa coi trọng ý kiến phản biện độc lập trong công tác BVMT hoặc có ý kiến nhưng cũng rất khó được chấp thuận trong một số dự án cụ thể.
- Nguồn lực tài chính đầu tư cho BVMT từ ngân sách nhà nước và vốn doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu; thiếu cơ chế đột phá để huy động nguồn tài chính cho công tác BVMT.
- Nhận thức và đạo đức môi trường, ý thức trách nhiệm BVMT của doanh nghiệp, cộng đồng nhiều nơi còn thấp, dẫn đến thiếu ý thức tự giác BVMT.
- Các dự án có nguy cơ cao gây ONMT cao vẫn được cấp phép đầu tư vào Việt Nam. Năng lực dự báo, cảnh báo phòng ngừa và ứng phó với các sự cố môi trường của cơ quan quản lý nhà nước về BVMT, địa Phương và các doanh nghiệp còn chưa được quan tâm và nhiều hạn chế.
- Tổ chức thực hiện còn yếu kém, nhất là ở cấp địa phương, cơ sở, kể cả cấp độ quản lý nhà nước về BVMT và quản trị môi trường ở các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề và doanh nghiệp.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục môi trường nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm BVMT trong và ngoài hệ thống giáo dục quốc gia còn hạn chế, chưa thật hiệu quả.
IV. Hướng giải pháp trước mắt và lâu dài
1.Thay đổi tư duy nhận thức và cách tiếp cận vấn đề
Hệ quản của việc khai thác, sử dụng môi trường tự nhiên thiếu trách nhiệm dẫn đến tất cả các vấn đề về môi trường sinh thái hiện nay chúng ta đang phải đối mặt. Con người khi tự cho mình là chủ nhân của Trái đất, có thể cải tạo và chinh phục tự nhiên, đã khai thác vốn tự nhiên một cách kiệt quệ và không thương tiếc và vô tình chúng ta đã phá vỡ đi quy luật tự nhiên vốn có của nó; mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, bắt đầu nảy sinh sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất tiếp tục gia tăng trong suốt thời gian vừa qua, đã và đang đe dọa tới sự tồn vong của Trái đất. Để giải quyết những vấn đề này phải đổi mới tư duy và hành động; các mô hình phát triển kinh tế - xã hội cần được dựa trên tư duy và đạo đức sinh thái trong điều kiện mới hiện nay. Tôn trọng và sống hài hòa với thiên nhiên, phát triển dựa trên hệ sinh thái phải trở thành triết lý cho mục tiêu phát triển bền vững và giải quyết tận gốc các vấn đề suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường hiện nay.
Hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách và pháp luật về BVMT, như: Luật BVMT sửa đổi và các văn bản hướng dẫn đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các pháp luật khác đáp ứng kịp yêu cầu phát triển Đất nước và hội nhập quốc tế (đặc biệt, phù hợp với các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết, thông lệ quốc tế để giải quyết các vấn đề môi trường xuyên biên giới); quy định quản lý CTR theo hướng thống nhất quản lý nhà nước CTR trên phạm vi cả nước và UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện về xử lý rác thải trên địa bàn; pháp luật về xử phát vi phạm về BVMT theo hướng tăng tính nghiêm minh và dăn đe; hệ thống quy định về BVMT để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các xung đột, tranh chấp về môi trường gây mất ổn định chính trị, an ninh trật tự xã hội; quy định về quy hoạch BVMT quốc gia và cấp tỉnh, quy hoạch bảo tồn ĐDSH quốc gia và các quy hoạch khác liên quan; hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia trên quan điểm áp dụng mức quy chuẩn, tiêu chuẩn tương đương các nước tiên tiến phát triển nhằm thiết lập hàng rào kỹ thuật duy trì và bảo vệ chất lượng môi tường, đảm bảo chủ động đề kháng trước các nguy cơ ONMT, dịch chuyển công nghệ lạc hậu vào Việt Nam. Xây dựng và phát triển các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường phù hợp với điều kiện Việt Nam
2.Tăng cường nhân lực và năng lực đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về BVMT ở các cấp
Ưu tiên đầu tư phát triển nguồn nhân lực đủ mạnh và tăng cường năng quản lý nhà nước về BVMT từ Trung ương đến địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Xây dựng và kiện toàn cơ cấu tổ chức của các cơ quan Trung ương và địa phương để đảm bảo thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về BVMT hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường các cấp.
3.Tăng cường đầu tư và đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác bảo vệ môi trường
Tăng tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho BVMT theo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Có cơ chế đẩy mạnh đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác BVMT (ngân sách nhà nước; các dự án và chương trình tài trợ trong và ngoài nước; Quỹ BVMT Việt Nam; Quỹ BVMT của địa phương huy động vốn từ cộng đồng, hợp tác công tư,…). Ưu tiên xã hội hóa, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ cho việc phát triển các công nghệ xử lý, tái chế chất thải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện cụ thể của Việt Nam. Có cơ chế đột phá để huy động các nguồn tài chính trong xã hội, bên cạnh các nguồn tài chính của nhà nước để phục hồi, xử lý ONMT; cơ chế sử dụng nguồn thu từ thu hút đầu tư trở lại cho BVMT. Hoàn thiện và triển khai hiệu quả các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường; xây dựng các cơ chế tài chính dựa trên các nguyên lý của kinh tế thị trường để thúc đẩy điều chỉnh, thay đổi hoạt động sản xuất, hành vi tiêu dùng theo hướng thân hiện môi trường. Đẩy mạnh chính sách phát triển kinh tế chất thải, các ngành công nghiệp môi trường, xử lý ô nhiễm, quản lý chất thải, cung cấp dịch vụ BVMT.
4.Tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường theo hướng hiệu lực, hiệu quả
Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường. Tăng cường cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra công tác BVMT đối với các dự án đầu tư, các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhằm phòng tránh hơn là để xảy ra sự cố môi tường mới thanh tra và kịp thời xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về BVMT. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu; tăng cường công tác BVMT các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề. Triển khai đồng bộ hệ thống quan trắc chất thải tại nguồn tự động liên tục và truyền số liệu trực tiếp về cơ quan quản lý. Phát huy hiệu quả và mở rộng đến cấp huyện, cấp xã đường dây nóng tiếp nhận, xử lý thông tin phản ánh, tố giác của cộng đồng về ONMT. Tăng cường năng lực quản lý CTR sinh hoạt đô thị và nông thôn; triển khai triệt để công tác phân loại rác thải tại nguồn, nâng cao năng lực thu gom và phát triển công nghệ xử lý CTR phù hợp, chú trọng xây dựng cơ chế để giảm thiểu, quản lý chặt chẽ rác thải nhựa từ đất liền ra biển. Tổ chức triển khai hiệu quả các chương trình, kế hoạch quốc gia liên quan đến BVMT, bảo tồn ĐDSH, bảo vệ và phát triển rừng. Xử lý rứt điểm và triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Thúc đẩy thực hiện các dự án xử lý ô nhiễm các nguồn nước mặt, đặc biệt trong các khu đô thị, khu dân cư, đẩy nhanh tiến độ cải tạo và phục hồi môi trường các điểm ô nhiễm tồn lưu hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, dioxin. Tăng cường đầu tư xây dựng và thực hiện các chương trình quan trắc và cảnh báo môi trường và ĐDSH; ưu tiên cho các vùng kinh tế trọng điểm, khu thập trung nhiều nguồn thải và khu vực nhạy cảm về môi trường. Quan trắc, giám sát chặt chẽ diễn biến chất lượng môi trường nước các lưu vực sông, chất lượng không khí ở các đô thị lớn. Tăng cường quan trắc và giám sát môi trường xuyên biên giới, nhất là đối với các lưu vực sông xuyên biên giới, môi trường biển, các tác động do mở cửa thương mại kinh tế, tình trạng dịch chuyển công nghệ, thiết bị sản xuất lạc hậu từ các nước trong khu vực và trên thế giới vào Việt Nam. Kiểm soát chặt chẽ tình hình nhập khẩu các sinh vật ngoại lai và sinh vật biến đổi gen từ nước ngoài về Việt Nam.
5.Đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ trong BVMT
Ưu tiên và đầu tư mạnh mẽ cho công tác nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ tiên tiến ứng dụng vào quản lý và BVMT hiệu quả như: Công nghệ sản xuất thân thiện môi trường, công nghệ ít chất thải, công nghệ tái chế và tái sử dụng chất thải, công nghệ carbon thấp, công nghệ vật liệu mới thay thế và ứng dụng trong xử lý môi trường,… Ứng dụng công nghệ thông tin, internet kết nối vạn vật và trí tuệ nhân tạo vào phát triển cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường quốc gia thống nhất và đồng bộ, hoàn thiện hệ thống quan trắc môi trường tự động, các trạm quan trắc và cảnh báo sớm sự cố môi trường. Nhà nước khuyến khích áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến nâng cao năng lực quản lý môi trường, dự báo và cảnh báo sớm ONMT cấp tỉnh, vùng và liên vùng.
6.Đẩy mạnh công tác truyên truyền và giáo dục môi trường
Xây dựng và hoàn thiện chương trình đào tạo và giáo dục môi trường trong hệ thống giáo dục phổ thông các cấp phù hợp với điều kiện và chương trình giáo dục của Việt Nam. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thực về BVMT, tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế ít chất thải, các bon thấp theo hướng đổi mới nội dung, đa dạng hình thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, các vùng miền và khu vực. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động đào tạo, truyền thông về môi trường; cung cấp thông tin kịp thời về BVMT trên các Phương tiện thông tin truyền thông đại chúng. Truyền thông mạnh mẽ để tạo phong trào rộng lớn trong toàn dân tham gia BVMT, bảo vệ rừng và bảo tồn ĐDSH. Đẩy mạnh công tác xây dựng chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề, phóng sự. Phát hiện, nêu gương, tạo phong trào, nhân rộng các điển hình, mô hình tốt, cách làm hay để tạo chuyển biến tích cực trong toàn xã hội.
III. KẾT LUẬN
Cần tiếp tục tăng cường nâng cao nhận thức, có chiến lược, kế hoạch hành động cụ thể để khắc phục khó khăn, thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường trong bối cảnh mới là trách nhiệm của mọi cấp, bộ, ngành đoàn thể, đặc biệt là các doanh nghiệp và người dân.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ PHỤ LỤC
[1] Với 878 khu đô thị, 280 khu công nghiệp (KCN), 683 cụm công nghiệp (CCN), hơn 500.000 cơ sở sản xuất, trên 3.500 doanh nghiệp khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng, hơn 5.400 làng nghề, hơn 13.000 cơ sở y tế đang hoạt động,... hàng ngày phát sinh hơn 9.000.000 m3 nước thải sinh hoạt (tỷ lệ thu gom đạt khoảng 12%), 650.000 m3 nước thải công nghiệp, 125.000 m3 nước thải y tế.
[2] Hiện có 250/280 (đạt 89,28%) KCN và 115/683 (đạt 16,8%) CCN đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung.
[3] Khối lượng CTR tăng khoảng 10%/năm và có xu hướng tiếp tục gia tăng. Theo báo cáo của Bộ TN&MT năm 2019, cả nước phát sinh hơn 61.000 tấn CTR sinh hoạt/ngày (hơn 37.000 tấn/ngày tại đô thị và hơn 24.000 tấn/ngày tại nông thôn). Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt đô thị của các địa phương từ 62-90%, khu vực nông thôn trung bình cả nước khoảng từ 45-60%.
[4] Đến tháng 12/2019, cả nước còn 32 cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng (Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg), 146 cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng chưa hoàn thành các biện pháp xử lý ô nhiễm triệt để (Quyết định số 1788/QĐ-TTg).
[5] Sự cố cháy nổ ở Công ty CP Phích nước Rạng Đông; sự cố ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt do đổ bùn thải trái phép tại Hòa Bình,…
[6] Sự cố môi trường tại 4 tỉnh miền Trung.
[7] Đến 2019, cả nước có 172 khu bảo tồn với tổng diện tích 2.493.843,67 ha; gồm 33 Vườn quốc gia; 65 khu dự trữ thiên nhiên; 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh; 56 khu bảo vệ cảnh quan (tăng 06 khu bảo tồn so với năm 2015, gồm 02 vườn quốc gia, 02 khu dự trữ thiên nhiên, 01 khu bảo tồn loài, sinh cảnh và 01 khu bảo vệ cảnh quan với tổng diện tích tăng thêm là 66.693,67 ha). Ngoài ra, Việt Nam có 09 khu Ramsar và 10 Vườn di sản ASEAN.
[8] Theo Hiệp hội Bảo tồn động vật hoang dã Việt Nam, từ 01/2013-12/2017, cả nước có 1.504 vi phạm; 41.328 kg cá thể và sản phẩm, 1.461 đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật; 432 bị cáo bị xét xử trong các vi phạm hình sự về động vật hoang dã.
[9] Kết quả nghiên cứu của đề tài độc lập cấp Quốc gia thực hiện từ 2014-2017 của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam "Điều tra, đánh giá các loài có nguy cơ tuyệt chủng cần được ưu tiên bảo vệ nhằm tu chỉnh Sách đỏ Việt Nam".
[10] Theo Thông tư số 35/2018/TT-BTNMT ngày 28/12/2018 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định tiêu chí xác định và ban hành danh mục loài ngoại lai xâm hại, Việt Nam hiện có 19 loài ngoại loài xâm hại và 61 loài có nguy cơ xâm hại.
[11] Năm 2000, chuột hải ly được nhập khẩu nuôi thử nghiệm, đây là một trong 100 loài sinh vật xâm hại nguy hiểm nhất thế giới, mang các mầm bệnh như lao, lao tủy, lao da,...
[12] Theo số liệu công bố hiện trạng rừng của Bộ NN&PTNT, năm 2010 cả nước có 13.258.843 ha (độ che phủ đạt 39,1%); 2011: 13.515.064 ha (39,7%); 2012: 13.862.043 ha (39,9%); 2013: 13.954.454 ha (39,71%); 2014: 13.796.506 ha (39,02%); 2015: 14.061.856 ha (40,84%); 2016: 14.377.682 (41,19%); 2017: 14.415.381 ha (41,45%); 2018: 14.491.295 ha (41,65%); 2019: 14.609.220 (41,89%).
[13] Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, giai đoạn 2011-2015, số vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng trung bình 27.265 vụ/năm, diện tích rừng bị thiệt hại trung bình 2.648 ha/năm; giai đoạn 2016-2018 là 16.980 vụ/năm, giảm 35% so với giai đoạn 2011-2015, rừng bị thiệt hại trung bình 2.328 ha/năm, giảm 29% so với giai đoạn 2011-2015.
[14] Trước 1945 trữ lượng rừng khoảng 200-300 m3/ha; năm 1993 còn khoảng 525 triệu m3 (trung bình 76 m3/ha). Tốc độ tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam từ 1-3 m3/ha/năm đối với rừng tự nhiên và 5-10 m3/ha/năm đối với rừng trồng.
[15] Theo số liệu của Bộ TN&MT (2015), đến năm 2012 Việt Nam đã mất 67% diện tích rừng ngập mặn (RNM) so với năm 1943. Giai đoạn 1943-1990, tỷ lệ mất RNM trung bình 3.266 ha/năm; giai đoạn 1990-2012 là 5.613 ha/năm. Trong 22 năm (1990-2012) tỷ lệ mất RNM gấp 1,7 lần giai đoạn 1943-1990. Đến năm 2012, khoảng 56% diện tích RNM trên toàn quốc là rừng mới trồng, thuần loại, chất lượng rừng kém cả về kích cỡ, chiều cao cây và đa dạng loài.
[16] Nghị Quyết số 18-NQ-TW ngày 25/10/2007 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lược quốc gia Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050; Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 1855/2007/QĐ-TTg ngày 27/12/2007 và Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg ngày 6/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam.
[17] Đến tháng 12/2019 có 135 dự án điện mặt trời với tổng công suất 8.935 MW được bổ sung vào quy hoạch phát triển điện lực và còn gần 260 dự án với tổng công suất tới 28.300 MW đang chờ để đưa vào quy hoạch.
[18] Nhật Bản hiện nay đang đau đầu trong việc tìm các giải pháp tái sử dụng kho chất thải năng lượng mặt trời đang ngày một đầy lên, vượt 10.000 tấn vào năm 2020 và đạt đến 800.000 tấn mỗi năm vào năm 2040.
[19] Theo thống kê của Bộ Y tế, trung bình mỗi năm khoảng gần 170 vụ với hơn 5.000 người mắc và hơn 27 người chết do ngộ độc thực phẩm. Giai đoạn 2011- 2016 đã ghi nhận 7 bệnh truyền qua thực phẩm, hơn 4 triệu người mắc bệnh và 123 người chết. Bệnh ung thư mỗi năm làm 70.000 người chết và hơn 200.000 ca phát hiện mới.
[20] Hiện tượng hải sản chết bất thường tại khu vực miền Trung bắt đầu xuất hiện tại tỉnh Hà Tĩnh, sau đó lần lượt xuất hiện tại các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế từ ngày 06/4/2016 đến hết ngày 10/5/2016.
[21] Theo báo cáo của OECD năm 2018) Managing weather-related disasters in Southeast Asian agriculture, OECD Studies on Water, OECD Publishing, Paris. Doi: org/10.1787/9789264123533-en.
[22] Theo báo cáo của Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương, tần suất xuất hiện của các tai biến thiên nhiên ở Việt Nam ở mức cao bao gồm: Lũ, ngập úng, bão và áp thấp nhiệt đới, hạn hán, lũ quét, xói lở/bồi lấp, lốc xoáy; ở mức trung bình bao gồm: Mưa đá và mưa lớn, sạt lở đất, cháy rừng, xâm nhập mặn; ở mức thấp bao gồm: Động đất, sướng muối, sóng thần.
[23] Hệ thống sông Hồng có 50% nguồn nước từ Trung Quốc. Hệ thống sông Mê Kông trên lãnh thổ Việt Nam chỉ có 10% nguồn nước bổ sung từ nội địa, 90% còn lại từ Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar và Trung Quốc. Hệ thống sông Mã và sông Cả đều có 40% lưu vực thượng nguồn nằm trên lãnh thổ Lào. Hệ thống sông Đồng Nai có 15% lưu vực thượng nguồn ở Campuchia.
[24] Bao gồm các đập: Xayaburi, Don Sahong, Pak Beng và Pak Lay tại Lào.
[25] Đất bị thoái hóa nặng ở Tây Nguyên khoảng 547.800 ha (chiếm 10%); đất thoát hóa nặng do nhiễm mặn và nhiễm phèn ở ĐBSCL chiếm tỷ lệ khá cao (14%); diện tích đất bị thoái hóa nặng ở duyên hải Nam Trung Bộ lớn nhất cả nước (21%); đất thoái hóa nặng ở vùng ĐBSH chỉ chiếm 4%.
[26] Luật Lâm nghiệp, Luật Đa dạng sinh học, Luật Di sản văn hóa, Luật Thủy sản, Luật Thuế BVMT, Luật Phí và Lệ phí, Luật Biển Việt Nam, Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư, Luật Tài nguyên nước, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo,…